
Trận Xích Bích (Xích Bích chi chiến) là một trận đánh lớn cuối cùng thời Đông Hán có tính chất quyết định đến cục diện thời Tam Quốc. Trận đánh diễn ra vào mùa đông năm Kiến An thứ 13 (tức năm 208) giữa liên quân Tôn Quyền-Lưu Bị với quân đội lấy danh nghĩa triều đình của Tào Tháo. Trận Xích Bích kết thúc với chiến thắng quyết định của phe Tôn-Lưu trước đội quân đông đảo hơn của Tào Tháo. Chiến thắng này đã góp phần củng cố vị trí cho hai chư hầu Tôn Quyền, Lưu Bị ở hai bờ Trường Giang đồng thời ngăn cản việc Tào Tháo mở rộng phạm vi quyền lực xuống phía Nam Trung Hoa, tạo cơ sở cho sự hình thành hai nước Thục Hán và Đông Ngô.
Trận Xích Bích có thể chia làm ba giai đoạn: Giai đoạn đụng độ ban đầu tại Xích Bích dẫn đến sự rút lui của quân Tào về chiến trường Ô Lâm trên bờ Tây Bắc của Trường Giang; giai đoạn thủy chiến mang tính quyết định; giai đoạn tháo chạy của Tào Tháo về hướng Hoa Dung (nằm xa về phía Bắc so với địa danh Hoa Dung hiện tại).
Trong giai đoạn đầu, thủy quân Tôn-Lưu ngược dòng Trường Giang từ Hán Khẩu-Phàn Khẩu tới Xích Bích, tại đây họ chạm trán với tiền quân của Tào Tháo. Vốn bị hành hạ bởi bệnh dịch và sự suy giảm về tinh thần cũng như sức chiến đấu do cuộc hành quân kéo dài từ Bắc xuống Nam, quân Tào không thể giành được lợi thế trong những trận giao tranh nhỏ ban đầu và buộc phải lui về đóng quân ở Ô Lâm (phía Bắc của Trường Giang).
Để giảm sự tròng trành của thuyền chiến (làm quân Tào vốn không quen với thủy chiến thường xuyên rơi vào trạng thái say sóng), Tào Tháo ra lệnh dùng xích sắt nối nhiều thuyền lại với nhau. Cũng có thuyết cho rằng quyết định này của Tào Tháo xuất phát từ lời khuyên của một gián điệp thuộc phe Tôn-Lưu
Quan sát động thái này của Tào, tướng Hoàng Cái bên phía Đông Ngô đã kiến nghị Chu Du dùng kế trá hàng và được Chu Du tán đồng. Việc gửi thư trá hàng của Hoàng Cái lập tức được Tào Tháo tin theo, không cần phải bày kế khổ nhục làm Hoàng Cái phải chịu đòn roi và cũng không cần người đưa thư Hám Trạch phải đấu trí với Tào Tháo đến mức như Tam Quốc Diễn Nghĩa mô tả. Việc trá hàng thuận lợi, Hoàng Cái chuẩn bị một đội thuyền để bơi sang đánh úp vào thuỷ trại Tào.
Khi đội "hàng binh" của Hoàng Cái đến giữa sông thì các hỏa thuyền bắt đầu được châm lửa và chúng theo gió Đông Nam lao thẳng vào hạm đội của Tào. Trong điều kiện gió lớn và bị xích vào nhau, các thuyền chiến của Tào Tháo nhanh chóng bắt lửa khiến một số lớn binh mã chết cháy trên thuyền hoặc chết đuối dưới sông.
Trong lúc quân Tào đang hoảng hốt vì đám cháy thì liên quân Tôn-Lưu do Chu Du dẫn đầu đã chiếm lĩnh trận địa và chia cắt lực lượng của Tào Tháo, buộc ông ta phải ra lệnh rút lui sau khi phá hủy một phần số thuyền chiến còn lại. Tào Tháo cùng bại binh rút lui về phía đường cái Hoa Dung xuyên qua vùng đầm lầy lớn phía Bắc hồ Động Đình. Trong điều kiện mưa nặng hạt khiến đường rút lui càng trở lên lầy lội, Tào Tháo phải ra lệnh cho binh lính, kể cả những người bị thương, vác theo các bó cỏ để lấp đường. Khó khăn cho quân Tào càng trầm trọng khi Chu Du và Lưu Bị không ngừng đuổi theo họ cho tới tận Nam Quận. Cuối cùng, thiệt hại nặng nề khiến Tào Tháo phải bỏ miền Nam rút về Nghiệp Quận, để lại Tào Hồng và Tào Nhân giữ Giang Lăng, Nhạc Tiến giữ Tương Dương và Mãn Sủng giữ Đương Dương[23].
Đáng ra liên quân Tôn-Lưu có thể tiêu diệt hoàn toàn bại quân của Tào Tháo nếu như họ không bị nghẽn lại tạo nên tình trạng hỗn loạn ở bờ Đông Trường Giang do thiếu thuyền vượt sông. Để giải quyết tình trạng lộn xộn, một đạo quân do Cam Ninh chỉ huy được lệnh thiết lập một đường sang sông khác trên phía Bắc ở Di Lăng, tuy nhiên đầu cầu này cũng không thể tiến xa do gặp phải đội quân tập hậu do Tào Nhân chỉ huy.
Trận Hợp Phì là một trận đánh lớn thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Các lực lượng quân của Đông Ngô và Tào Ngụy đã giao chiến để giành quyền kiểm soát Hợp Phì (nay thuộc tỉnh An Huy). Hợp Phì đã là một thành Tào Tháo lệnh cho Lưu Phức xây dựng tại phía đông-nam của Tào Ngụy làm tuyến phòng thủ cho nước Ngụy. Do đó, việc bảo vệ Hợp Phì cực kỳ quan trọng đối với Tào Ngụy vì nếu Hợp Phì rơi vào Đông Ngô thì thành Hứa Xương sẽ bị lâm nguy. Đối với Đông Ngô, Hợp Phì là một vị trí chiến lược có thể ngăn chặn các cuộc xâm lấn của Tào Ngụy. Do đó, cả hai đã giao chiến để tranh giành Hợp Phì từ năm 208 đến năm 253 nhưng bất phân thắng bại.
Tháng 11 năm 208, Tào Tháo đại bại tại trận Xích Bích, nhưng vẫn có lực lượng quân mạnh đóng ở phía bắc của Kinh Châu. Tháng 12, quân Ngô dưới sự chỉ huy của Chu Du đã chiếm Giang Lăng đang được Tào Nhân trấn giữ còn đích thân Tôn Quyền dẫn quân đánh Hợp Phì do Lưu Phức trấn giữ, với hy vọng sẽ tạo ra một chiến tuyến mới ở phía tây và phía bắc. Quân Tôn Quyền bao vây Hợp Phì và phái Trương Chiêu đi tấn công Đang Đô ở Cửu Giang, nhưng không thành công.
Tào tháo phái Trương Hỉ giải vây Hợp Phì khi nhận được tin báo. Quân Tôn Quyền đã bao vây Hợp Phì cho đến năm sau nhưng vẫn không thể phá thành. Tôn Quyền quyết định đích thân dẫn một đội kỵ binh tấn công nhưng Trương Hoành khuyên Tôn Quyền không nên và Tôn Quyền đã từ bỏ kế hoạch của mình.
Hợp Phì đã bị vây và tấn công nhiều lần trong vài tháng. Tưởng Tế, cấp phó của Lưu Phức, đã khuyên ông phái ba tướng ra ngoài thành với những phong thư giả mạo rằng viện quân của Trương Hỉ đã đến. Tôn Quyền bắt được hai trong ba tướng và đọc những lá thư giả mạo này và tưởng rằng viện quân của Tào đã đến thật nên đã lệnh cho quân rút lui.
Trận Đồng Quan hay Chiến dịch Đồng Quan (Đồng Quan chi chiến) là trận đánh chiến lược diễn ra giữa quân đội triều đình trung ương nhà Đông Hán do thừa tướng Tào Tháo thống lĩnh và các đội quân Tây Lương (liên quân Quan Trung) do các thế lực quân phiệt cát cứ Mã Siêu, Hàn Toại cầm đầu ở vùng Quan Tây xảy ra vào năm 211 tại thời kỳ Tam quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Chiến trường tổng thể của trận chiến này diễn ra trên một phạm vi rộng lớn từ huyện Vị Nam thuộc tỉnh Thiểm Tây cho đến Bồ Châu – Sơn Tây, giao tranh diễn ra liên tục từ thành Trường An, cho đến lưu vực sông Vị Thủy, Hoàng Hà, núi Yên Định. Tuy vậy, mặt trận chính tập trung chủ yếu tại ải Đồng Quan và khu vực phụ cận. Cuộc chiến này được Tào Tháo khởi xướng trong chiến lược mở rộng lãnh thổ về phía Tây, xóa sổ các thế lực quân phiệt đang cát cứ tại Lương Châu, trấn áp sự chống đối của quân Tây Lương và các bộ tộc rợ Khương do Mã Siêu và Hàn Toại cầm đầu, loại bỏ mối nguy hại đối với hậu phương của triều đình trung ương nhà Hán (thực tế do tập đoàn thống trị Tào – Ngụy do Tào Tháo đứng đầu đang thao túng) củng cố sự thống trị ở phương Bắc, làm bàn đạp tiến xuống phương Nam, thống nhất Trung Quốc.
Trận chiến diễn ra quyết liệt với sự tham gia tham chiến đông đảo của các bên từ quân số cho đến thành phần chỉ huy, các đợt giao tranh diễn ra ở nhiều cấp độ từ những cuộc chạm trán nhỏ lẻ cho đến những trận đánh quy mô lớn. Ở trong chiến dịch này Mã Siêu đã chỉ huy quân Tây Lương gây ra nhiều khó khăn cho Tào Tháo, tuy nhiên bằng những phương án tác chiến hợp lý, Tào Tháo đã từng bước hóa giải được sức mạnh của Tây Lương, giành quyền chủ động trên chiến trường và kết thúc bằng một kế ly gián và thừa cơ đánh bại quân Tây Lương. Chiến thắng này của Tào Tháo có ý nghĩa quan trọng, giúp ông bình định được các thế lực cát cứ ở hậu phương nhà Hán và nhà Ngụy về sau, củng cố được thế lực của mình ở vùng này, trấn áp được các dân tộc thiểu số ở vùng Tây Bắc.
Trận Quan Độ là trận đánh diễn ra trong lịch sử Trung Quốc vào năm 200 tại Quan Độ thuộc bờ nam Hoàng Hà giữa Tào Tháo và Viên Thiệu là 2 thế lực quân sự mạnh nhất trong thời kì tiền Tam Quốc. Kết quả trận chiến là Tào Tháo đã tiêu diệt phần lớn quân số của đối thủ lớn nhất là Viên Thiệu, tiến tới đánh bại nốt các thế lực chống đối ở miền Bắc Trung Nguyên, tạo điều kiện xây dựng nên nhà Tào Ngụy đồng thời chấm dứt thời kì Tiền Tam Quốc.
Nguyên nhân sâu xa của trận Quan Độ là giải quyết cuộc tranh chấp từ lâu giữa 2 thế lực quân sự mạnh nhất thời kì Tiền Tam quốc là Viên Thiệu và Tào Tháo.
Trong khi Tào Tháo đánh dẹp các chư hầu phía nam và phía đông thì Viên Thiệu cũng tập trung tiêu diệt Công Tôn Toản ở Bình Nguyên, thôn tính U châu, Thanh châu và Tinh châu. Làm chủ địa bàn rộng lớn, có nhiều quân sĩ và hào kiệt, Viên Thiệu trở thành thế lực mạnh mẽ ở phía bắc mà Tào Tháo chưa từng dám đối địch khi mới đến Hứa Xương. Ngay từ niên hiệu Sơ Bình (năm 190), Viên Thiệu đã từng nói: "Ta đóng giữ Hoàng Hà ở phía Nam, khống chế Yên, Đại ở phía Bắc, rồi sau đó sẽ chỉ huy tướng sĩ ở phía Bắc đại hà, tiến xuống phía Nam để giành thiên hạ."
Năm 199, Lưu Bị sau thời gian nương nhờ Tào Tháo lấy cớ tiêu diệt Viên Thuật rồi bỏ đi. Sau khi tiêu diệt được Viên Thuật, Lưu Bị bị Tào Tháo đánh bại, 3 anh em Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi thất tán mỗi người một nơi. Quan Vũ tạm hàng Tào Tháo. Lưu Bị thì nương nhờ Viên Thiệu, xui Viên Thiệu tấn công Tào Tháo. Viên Thiệu cũng muốn nhân dịp tiêu diệt lực lượng của Tào Tháo đã mạnh lên nhiều và trở thành địch thủ lớn nhất.
Trận Di Lăng (Di Lăng chi chiến) hay còn gọi là trận Khiêu Đình (Khiêu Đình chi chiến) hoặc trận Hào Đình, là trận chiến giữa nước Thục Hán và nước Đông Ngô năm 221-222 thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Đây là cuộc chiến đầu tiên nổ ra sau khi 3 nước Tào Ngụy, Thục Hán và Đông Ngô chính thức hình thành. Thục và Ngô đã có một thời gian liên minh cùng chống Tào Ngụy hùng mạnh ở phương Bắc, nhưng vì việc tranh chấp địa bàn chiến lược Kinh châu khiến liên minh 2 nước dần dần rạn nứt; sau một vài trận xung đột nhỏ đã xảy ra việc Đông Ngô đánh úp chiếm hết phần Kinh châu của Thục, dẫn tới cuộc chiến quy mô lần này.
Không rõ thương vong của quân Ngô. Quân Thục đại bại, tổng số quân bị giết tại Di Lăng – Khiếu Đình có vài vạn người, xác chết xuôi theo dòng sông Trường Giang trôi xuống làm tắc cả dòng sông. Chiến thuyền, khí giới, xe cộ quân nhu bên Thục Hán bị mất gần hết.
Chỉ trừ cánh quân của Nha môn tướng Hướng Sủng, trong lúc hoảng loạn vẫn duy trì được kỷ luật, không bị tổn thất một người nào, cuối cùng rút lui an toàn về thành Bạch Đế, cùng với Triệu Vân trở thành lực lượng bảo vệ cho Chiêu Liệt đế Lưu Bị.
Gần như toàn bộ các tướng chỉ huy chiến dịch Di Lăng của Thục Hán bị xóa sổ: Mã Lương tử trận ở Ngũ Khê, Trương Nam, Phùng Tập, Phó Đồng đều tử trận khi bảo vệ Lưu Bị chạy khỏi vòng vây, Man vương Ma Sa Kha cũng tử trận, Trình Kỳ tự sát, Hoàng Quyền chạy sang hàng Ngụy. Chỉ còn lại Ngô Ban, Hướng Sủng trở về, còn tướng cánh quân dự bị Triệu Vân chưa tham chiến.
Lưu Bị thất bại vì sai lầm trầm trọng về chiến thuật. Trước hết, ông quá nôn nóng muốn đánh bại Đông Ngô, tiến thẳng tới diệt Tôn Quyền, nên ra quân gấp gáp; ngược lại phía Đông Ngô, Lục Tốn lại rất trầm tĩnh và tỉnh táo xét đoán tình hình.
Như Lục Tốn từng nói khi viết thư cho Tôn Quyền, nếu Lưu Bị tận dụng thế mạnh, cho quân thủy bộ cùng tiến thì quân Ngô rất nguy khốn, nhưng vua Thục Hán lại dồn hết quân thủy lên bờ, lập liên trại. Hơn nữa, khi đóng quân chọn rừng rậm nhiều cây để có bóng mát cũng là sai lầm, tạo điều kiện cho kẻ địch đánh hỏa công; vật liệu dựng trại không dùng đất đá mà lại lấy cành cây làm vật liệu nên khi quân Ngô nổi lửa, trại Thục nhanh chóng bị thiêu. Ngoài ra, Lưu Bị còn một sai lầm nữa khi quyết định đổ bộ lập trại, là dàn 4 vạn quân trải suốt 700 dặm, phạm vào điều đại kỵ về phân tán binh lực của nhà binh.
Chiến thuật mà Lục Tốn áp dụng trong chiến dịch Khiếu Đình được các sử gia đánh giá giống với Tào Quệ nước Lỗ thời Xuân Thu đánh bại Tề Hoàn công: mặc cho quân địch xung trận lần đầu không xuất kích vì khí thế địch đang hăng, bỏ qua quân địch xung trận lần thứ 2 không ứng chiến khi nhuệ khí địch bắt đầu giảm, đến lần 3 khi quân địch xung phong, nhuệ khí đã cạn kiệt thì quân mình mới ra trận ứng chiến là đánh chắc thắng. Lục Tốn tuy đông quân hơn nhưng vẫn trầm tĩnh và lạnh lùng ứng phó trước sự nôn nóng của Lưu Bị, để cho Lưu Bị chiếm mấy trăm dặm đất với những điểm cao, nhưng cuối cùng bất ngờ phản công giành được toàn thắng.
Trận Hổ Lao Quan là trận đánh mô tả về cuộc chiến giữa thế lực quân sự do lãnh chúa Đổng Trác và Lã Bố chỉ huy chống lại liên minh 18 lộ chư hầu (liên minh Quan Đông) do Viên Thiệu làm minh chủ vào năm 190. Trận đánh mô tả lại dựa trên chiến dịch chống lại Đổng Trác của các chư hầu vào năm 190. Trong Hổ Lao Quan, đặc biệt nhất là trận đọ sức trực tiếp nổi tiếng giữa Lã Bố chống lại ba anh em Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, hay còn gọi là Tam anh chiến Lã Bố đã đi vào lịch sử, văn hóa, thậm chí trong cả trong Kinh kịch Trung Quốc.
Sau khi Quan Vũ chém Hoa Hùng, quân Đổng Trác thua chạy dài. Đổng Trác đích thân dẫn 15 vạn quân tiến ra giữ Hổ Lao quan. Riêng Lã Bố lĩnh 3 vạn quân ra trước quan ải, đóng một trại lớn làm tiền quân còn Đổng Trác thì đóng đồn trên cửa quan.
Bên kia, Viên Thiệu họp các tướng lại bàn, cử binh tiến sát cửa Hổ Lao vây đánh. Tào Tháo cũng dẫn quân tiếp ứng. Các chư hầu đều có mặt. Lã Bố đem 5000 quân thiết kỵ lại khiêu chiến, đánh tan quân tiền bộ của Vương Khuông, liên tiếp đánh bại các danh tướng của quân liên minh như Phương Duyệt, Mục Thuận, Vũ An Quốc...
Lã Bố lại kéo quân đến thách đánh. Các tướng chư hầu ai nấy đều khiếp sợ trước sự kiêu dũng của Lã Bố. Công Tôn Toản vác ngọn giáo nhảy ra đánh Lã Bố, mới được vài hiệp thì thua chạy. Lã Bố thúc ngựa xích thố sấn lại đuổi, ngựa này chạy nhanh như bay. Lã Bố gần đuổi kịp Toản thì ở bên rìa đường, Trương Phi quát lớn: "Thằng đầy tớ ba họ kia đừng chạy nữa! Có Trương Phi người đất Yên đây!" Lã Bố thấy thế bỏ Công Tôn Toản, đánh nhau với Trương Phi.
Trương Phi hăng hái cố đánh Lã Bố. Hai người đánh nhau được hơn 50 hiệp chưa rõ bên nào thua bên nào được. Quan Vũ đứng ngoài thấy thế cầm thanh long yển nguyệt đao phi ngựa đến cùng đánh. 3 con ngựa đứng dàn kiểu chữ đinh, đánh nhau được 30 hiệp nữa hai người cũng vẫn không hạ được Lã Bố. Lưu Bị bấy giờ cũng cầm song kiếm thúc ngựa chạy vào đánh giúp hai người em của mình. Ba người vây tròn lấy Lã Bố đánh chẳng khác gì quân đèn cù.
Lã Bố cố sức chống đỡ không nổi, bèn nhắm giữa mặt Lưu Bị phóng vờ một ngọn kích. Lưu Bị tránh được. Lã Bố mở góc của trận, cắp đao ngược kích, phi ngựa chạy về. Ba người thúc ngựa sấn vào, quân mã tám xứ đều reo ầm lên, xô cả ra đánh. Quan Lã Bố chạy về trên cửa Hổ Lao. Ba người theo sau đuổi mãi. Chư hầu tám xứ cùng mời Lưu, Quan, Trương đến mừng công rồi sai người về trại Viên Thiệu báo tin mừng.
Sau thất bại tại Hổ Lao Quan, Đổng Trác bỏ về thành Lạc Dương, tình thế nguy ngập, Lý Nho đề xuất Đổng Trác dời đô về Trường An để phòng thủ. Đổng Trác cho đốt Lạc Dương và đem toàn bộ dân quan về Trường An. Triệu Xầm, tướng phòng thủ Phí Thủy Quan nghe tin liền đầu hàng, dâng cửa ải cho Tôn Kiên, Tôn Kiên liền kéo quân vào Lạc Dương và lục lọi tìm được ngọc tỷ truyền quốc.